1. Điều trị các yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành để bệnh không tiến triển nặng thêm: điều trị tăng huyết áp, điều trị rối loạn lipid máu, điều trị đái tháo đường, bỏ hút thuốc lá, giảm cân nặng đạt cân nặng lý tưởng, thay đổi lối sống…

2. Điều trị phòng ngừa nhồi máu cơ tim cấp: dùng các loại thuốc kháng kết dính tiểu cầu để phòng ngừa đông máu gây tắc mạch vành: Aspirine,Clopidogrel…
3. Điều trị chống cơn đau thắt ngực bằng các loại thuốc dãn mạch cũng là một phương pháp điều trị bệnh mạch vành hiệu quả.
Điều trị can thiệp động mạch vành (nong rộng lòng động mạch, đặt khung giá đỡ trong lòng động mạch vành)
1. Dùng cho các trường hợp đau ngực do thiếu máu cơ tim mà ít hoặc không đáp ứng với thuốc điều trị nội khoa.
2. Dùng cho các trường hợp bị đau thắt ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim cấp.
Điều trị phẫu thuật bắc cầu động mạch vành
1. Dùng cho các trường hợp động mạch vành bị tổn thương nhiều chổ, tổn thương kéo dài… cho các trường hợp mà không thể can thiệp được động mạch vành.
2. Đây là một cuộc mổ lớn, dùng các mạch máu khác của ngay chính bản thân bệnh nhân để làm cầu nối qua chỗ động mạch vành bị hẹp.
Ngoài các phương pháp điều trị bệnh động mạch vành nói trên, người mắc bệnh động mạch vành còn cần phải chú ý đến lối sống, dinh dưỡng hàng ngày của mình. Những lời khuyên sau sẽ rất hữu ít cho bệnh nhân động mạch vành.

Hút thuốc lá
Các nhà chuyên môn đã xác nhận hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ hàng đầu đối với bệnh động mạch vành. Người ta thấy hút thuốc lá không những gây tốn thương màng trong các động mạch mà còn sinh ra chất nicotin gây tăng nhịp tim và huyết áp, tăng nhu cầu oxy của các cơ tim. Các oxy cacbon do hút thuốc lá sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxy của máu.
Ngoài ra đó còn là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng độ kết dính của tiểu cầu và làm giảm các lipoprotein có tỷ trọng cao
Yếu tố dinh dưỡng được quan tâm đến khi người ta nhận thấy nhiều ở vùng Địa Trung Hải như: Ý, Hy Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng tỷ lệ mắc bệnh mạch vành không tăng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượng rau và trái cây trong khẩu phần ở các nước này thường cao.
Cholesterol máu
Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức phận quan trọng, một phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cung cấp.

Lượng cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toàn phần trong huyết thanh, tuy ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các acid béo no. Do cholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành nên hầu hết các chuyên gia đều khuyên lượng cholesterol trong chế độ ăn trung bình nên dưới 300mg/ngày/người.
Cholesterol chỉ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, nhất là não (2500mg%), bầu dục (5000mg%), tim (2100mg%), lòng đỏ trứng (2000mg%), do đó hạn chế các thức ăn này góp phần giảm lượng cholesterol trong khẩu phần.
Qua 10 năm theo dõi nhận thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành tăng lên một cách có ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo no trong khẩu phần. Acid béo no có nhiều trong các chất béo động vật, còn các loại dầu thực vật nói chung giàu acid béo không no. Do đó một chế độ ăn giảm chất béo động vật, tăng dầu thực vật, bớt ăn thịt, tăng ăn cá là có lợi cho người có rối loạn chuyển hóa cholesterol cũng là một phương pháp điều trị bệnh động mạch vành.
Chế độ ăn nhiều rau và trái cây tỏ ra có tác dụng bảo vệ cơ thể với bệnh mạch vành tuy thế còn chưa rõ ràng. Có thể đó là do tác dụng của chất xơ có nhiều trong rau quả, cũng có thể là một chế độ ăn thực vật sẽ làm giảm huyết áp, một nhân tố nguy cơ của bệnh động mạch vành.
Nói chung các biện pháp này bao gồm các lời khuyên về chế độ dinh dưỡng, cai thuốc lá, hoạt động thể lực và duy trì cân nặng ổn định. Trong các khuyến cáo về ăn uống, người ta khuyên năng lượng do chất béo cung cấp không được vượt quá 30% tổng số năng lượng, sử dụng dầu thực vật, tăng sử dụng khoai, rau và trái cây. Các loại đường ngọt không cung cấp quá 10% tổng số năng lượng còn năng lượng do protein nên đạt từ 10-15%.