Cơ sở sinh lý của rèn luyện sức bền ở bệnh nhân mạch vành là nâng cao chức năng co bóp của tim, cải thiện sự hấp thụ ôxy của cơ tim và sử dụng ôxy tiết kiệm hơn. Ngoài ra các bài tập rèn sức bền còn kích thích phát triển tuần hoàn bàng hệ của cơ tim, cải thiện khả năng cung cấp máu cho cơ tim.
Bệnh mạch vành là bệnh hay gặp của hệ tim mạch, do các mảng xơ vữa gây chít hẹp lòng mạch của các mạch máu nuôi dưỡng cơ tim, kết quả là cơ tim không được cung cấp đủ ôxy và các chất dinh dưỡng.
Tập luyện thường xuyên sẽ làm giảm tần số mạch nói chung và giảm tần số mạch khi thực hiện bài tập, điều này cho phép người bệnh nâng được ngưỡng đau khi thực hiện các công việc trong cuộc sống thường ngày.
Nhưng cần phải nhớ rằng, phải qua 3-4 tháng tập luyện thường xuyên huyết áp mới bắt đầu hạ xuống, và sau 2-3 năm tập luyện thường xuyên, huyết áp mới giảm đáng kể và có thể trở về bình thường.
Tập luyện các bài tập rèn sức bền thường xuyên còn có hiệu quả giảm cân, điều hòa lượng mỡ máu như giảm lượng cholesterol, triglycerid và tăng lượng lipoprotein có trọng lượng phân tử cao (HDL), giảm vữa xơ động mạch, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim.
Tập luyện thể dục thưỡng xuyên là rất tốt trong điều trị của bệnh nhân mạch vành.
Tập luyện rèn sức bền làm giãn và tăng tính đàn hồi của các mạch máu.
Chương trình tập luyện trong phác đồ điều trị của bệnh nhân mạch vành mang tính cá nhân, phụ thuộc vào mức độ biểu hiện của bệnh, dấu hiệu của suy tuần hoàn, mức độ tăng huyết áp và các yếu tố khác. ở các bệnh nhân có chứng đau thắt ngực cần phải được xác định giai đoạn của bệnh.
Nếu bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định (cơn đau xuất hiện cả trong trạng thái yên tĩnh), nhồi máu cơ tim cấp, suy tuần hoàn độ 2-3 hay huyết áp tăng trên 180/100 mmHg thì bị chống chỉ định đối với tập luyện.
Trước khi thực hiện tập luyện thể dục thể thao theo phác đồ điều trị của bệnh nhân mạch vành thì phải xác định được liều lượng tập bằng thử nghiệm trên xe đạp lực kế (tiến hành trong bệnh viện). Tần số mạch trong lúc đi bộ hay chạy cần phải thấp hơn mức gây ra cơn đau ngực, khó thở hay đánh trống ngực là 10-12 nhịp/phút.
Ví dụ, nếu trên xe đạp lực kế thấy xuất hiện cơn đau ngực khi tần số mạch đạt 125 nhịp/phút thì khi thực hiện bài tập người bệnh phải khống chế tốc độ để tần số mạch không vượt quá 110-115 nhịp/phút.
Hiệu quả tập luyện phụ thuộc nhiều vào cường độ bài tập (tốc độ thực hiện bài tập). Ðể tăng thêm tốc độ đi bộ hoặc chạy thì trước khi tập, người bệnh cần uống nitroglycerin, hiệu quả giảm đau của nitroglycerin kéo dài khoảng 30 phút, đủ để tiến hành một buổi tập luyện.
Trong các bài tập rèn sức bền thì đi bộ nhanh là phương pháp phù hợp nhất đối với bệnh nhân mạch vành vì cường độ vận động không lớn và dễ điều chỉnh liều vận động.
Giai đoạn đầu từ 8-12 tuần, tập đi bộ nhanh, sau đó tùy theo trạng thái sức khỏe có thể chuyển sang tập luân phiên giữa đi bộ nhanh và chạy bước nhỏ. Sẽ đạt được hiệu quả tập luyện khi ở giai đoạn người bệnh thực hiện các bài tập tích cực như đi bộ nhanh. Thời gian tập là 20-30 phút/buổi, 5-6 buổi/tuần, hay thậm chí thời gian mỗi buổi tập khoảng 20 phút cũng đã cải thiện được tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân.
Nếu trong tập luyện theo phác đồ điều trị của bệnh nhân mạch vành xuất hiện cảm giác nặng ở ngực, đánh trống ngực, khó thở, mệt hay chóng mặt thì cần phải giảm tốc độ vận động hoặc ngừng tập. Nếu xuất hiện biểu hiện của cơn đau thắt ngực thì phải ngừng tập và dùng ngay nitroglycerin.
Bệnh nhân có thể tham gia tập trong các nhóm có tổ chức hay tập tại nhà theo một chương trình cá nhân. Chương trình tập luyện của bệnh nhân phải do chuyên gia về thể dục chữa bệnh kết hợp với bác sĩ điều trị xây dựng. Nếu có điều kiện cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên ngành y học thể thao.