Việc thực hiện các quy định  				về thể dục, thể thao cho mọi người 
Về thể dục, thể thao quần  				chúng:
Chương II, Mục I Luật Thể dục  				,thể thao  quy định : chính sách phát triển thể dục, thể thao  				quần chúng; phong trào thể dục, thể thao quần chúng; thi đấu thể  				thao quần chúng; thể dục, thể thao cho người khuyết tật; thể  				dục, thể thao cho người cao tuổi; thể dục phòng bệnh, chữa bệnh;  				các môn thể thao dân tộc; thể thao giải trí và thể thao quốc  				phòng. Nội dung này được cụ thể hoá tại Nghị định số  				112/2007/NĐ-CP (các điều 4, 5, 6, 7 và 8); Nghị định số  				05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc  				(Điều 14); Luật Người cao tuổi năm 2009 và Nghị định số  				06/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và  				hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi (Điều 3);  				Luật Người khuyết tật năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi  				hành.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp  				luật này dã tạo cơ sở pháp lý  thúc đẩy hoạt động TDTT quần  				chúng phát triển; các cá nhân, cơ quan, tổ chức đã ý thức được  				trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc tự tổ chức tập  				luyện TDTT và tham gia phát triển phong trào TDTT quần chúng. Số  				người tham gia ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp cho hoạt động TDTT quần  				chúng theo chủ trương xã hội hóa ngày càng nhiều.
Tuy nhiên, các quy định về TDTT  				quần chúng trong Luật Thể dục , thể thao đã bộc lộ một số hạn  				chế nhất định. Cụ thể như: Chỉ tiêu đánh giá phong trào TDTT  				quần chúng gồm chỉ tiêu về người tập luyện thể thao thường xuyên  				và gia đình thể thao là chưa phù hợp với thực tiễn, chưa bao  				quát và phản ánh hết sự phát triển TDTT quần chúng , trong khi  				đó chưa có điều nào quy định về phát triển thể dục thể thao quần  				chúng nói riêng và thể dục thể thao nói chung bao gồm những nội  				dung cụ thể gì và thẩm quyền ban hành tiêu chí đánh giá sự phát  				triển đó do ai quy định, ai tiến hành thống kê đánh giá.v.v.   				Việc quản lý hoạt động thi đấu thể thao quần chúng có yếu tố  				nước ngoài chưa được Luật Thể dục, thể thao quy định. Bên cạnh  				đó có những nội dung cần thiết đã được quy định trong các văn  				bản dưới luật có thể đưa vào Luật như vấn đề đầu tư cơ sở vật  				chất cho TDTT quần chúng chưa được quy định cụ thể trong Luật,  				nhưng đã được quy định trong Nghị định số 112/2007/NĐ-CP  hướng  				dẫn và quy định chi tiết một số điều của Luật Thể dục, thể thao  				 .
Về  				giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường  				
Nội dung giáo dục thể chất và thể  				thao trong nhà trường bao gồm các quy định về: khái niệm giáo  				dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường; trách nhiệm  				của Nhà nước, nhà trường, đoàn thanh niên, các tổ chức xã hội-  				nghề nghiệp về thể thao trong giáo dục thể chất và thể thao  				trong nhà trường; quyền và nghĩa vụ của giáo viên, giảng viên  				thể dục thể thao và của người học; thi đấu thể thao trong nhà  				trường. Các nội dung trên được hướng dẫn cụ thể tại Điều 7 Nghị  				định số 112/2007/NĐ-CP.
Triển khai các quy định của Luật  				Thể dục, thể thao, công tác giáo dục thể chất và thể thao trong  				nhà trường tính đến năm 2009, cả nước có trên 80% số trường học  				thực hiện tốt chương trình giáo dục thể chất chính khoá có nền  				nếp theo quy định; có trên 60% số trường học có hoạt động thể  				thao ngoại khoá thường xuyên; có 85% học sinh, sinh viên đạt  				tiêu chuẩn thể lực theo quy định. 
Bên cạnh những kết quả đã đạt  				được, công tác TDTT trong trường học những năm qua cho thấy quy  				định trong Luật Thể dục, thể thao về lĩnh vực này cần nghiên cứu  				bổ sung như  vấn đề về đội ngũ giáo viên thể dục, đặc biệt là  				cấp tiểu học; thiết chế thể thao trong trường học thế nào để  				khuyến khích người học tham gia tập luyện TDTT nâng cao sức  				khoẻ, tạo tiền đề cho việc phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu thể  				thao. Hay như còn thiếu quy định về chuẩn giáo viên, giảng viên  				TDTT; chuẩn cơ sở vật chất TDTT trong nhà trường. Do đó, việc  				thực thi các vấn đề về TDTT trong trường học rất cần được quan  				tâm có những quy định cụ thể thống nhất.
Về thể dục, thể thao trong lực  				lượng vũ trang 
Quy định về hoạt động thể dục,  				thể thao trong lực lượng vũ trang,Luật quy định trách nhiệm của  				cơ quan nhà nước đối với TDTT trong lực lượng vũ trang, trách  				nhiệm của các đơn vị trong lực lượng vũ trang, quyền và nghĩa vụ  				của cán bộ, chiến sỹ.
Nhìn chung các quy định của Luật  				Thể dục, thể thao về TDTT trong lực lượng vũ trang cơ bản phù  				hợp với tình hình thực tiễn, nêu cao trách nhiệm của Nhà nước,  				các Bộ, ngành, đơn vị có liên quan và quyền và nghĩa vụ cụ thể  				của từng cán bộ, chiến sỹ đối với hoạt động này. Trên cơ sở đó,  				công tác TDTT trong lực lượng vũ trang từng bước đi vào ổn định,  				vừa thực hiện nhiệm vụ huấn luyện thể lực phục vụ sẵn sàng chiến  				đấu, vừa góp phần vào thành tích thể thao chung của đất nước.  				Tuy nhiên trong thực tế còn một bộ phận của lực lượng vũ trang  				là dân quân tự vệ cũng cần được quy định về giáo dục thể chất  				như thế nào là phù hợp?
 				Việc thực hiện các quy định về  				thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp
Về Thể thao thành tích cao 				
Cụ thể hóa Luật Thể dục, thể  				thao, đã được các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản  				quy phạm pháp luật bao gồm các quy định về xây dựng cơ sở vật  				chất thể thao thành tích cao, đào tạo, bồi dưỡng vận động viên,  				huấn luyện viên (Điều 9, 10 Nghị định 112), chế độ chính sách  				cho vận động viên, huấn luyện viên; chế độ dinh dưỡng đối với  				vận động viên, huấn luyện viên….Có thể nói, thể thao thành tích  				cao hiện nay được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản pháp quy toàn  				diện nhất so với các lĩnh vực khác của hoạt động TDTT.
Thực hiện các quy định của Luật  				Thể dục, thể thao và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác  				quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao đã được tăng cường  				và bước đầu đi vào nề nếp. 
Hệ thống cơ sở đào tạo tài năng  				thể thao từng bước được hoàn thiện và có sự chỉ đạo, quản lý  				thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Hệ thống thi đấu thể  				thao quốc gia ngày càng được mở rộng, ổn định và phù hợp với hệ  				thống lịch thi đấu hàng năm của thế giới, châu lục và khu vực  				tạo điều kiện cho vận động viên nâng cao thành tích thể thao. 				Chế độ, chính  				sách cho vận động viên, huấn luyện viên đã và đang được hoàn  				thiện. Các khoản chi về chế độ dinh dưỡng, tiền công hàng ngày,  				bảo hiểm, thưởng vật chất.. đã cơ bản được đảm bảo ở tuyến tỉnh,  				đội tuyển quốc gia. Các chính sách ưu tiên, hướng nghiệp cho vận  				động viên cũng được cải thiện góp phần tạo điều kiện tốt nhất  				cho vận động viên yên tâm tập luyện, phấn đấu, công hiến cho tổ  				quốc.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật đã được  				nhà nước quan tâm và đầu tư xây dựng, góp phần hoàn thiện, nâng  				cao thành tích thể thao và đào tạo vận động viên. 
Tuy nhiên, vẫn cần bổ sung hoàn  				thiện điều chỉnh một số tồn tại như quy định về giải thi đấu thể  				thao, thẩm quyền quyết định tổ chức, trình tự thủ tục đăng cai  				tổ chức...còn chưa phù hợp với thực tiễn. Chưa có quy định về  				thẩm quyền ban hành hoặc công nhận áp dụng  luật thi đấu thể  				thao.
Về thể thao chuyên nghiệp
Nội dung này được quy định tại  				Mục 2 Chương III Luật Thể dục, thể thao, qua  thực hiện quy định  				của Luật, thể thao chuyên nghiệp đã đạt được những thành công  				nhất định trong các môn bóng đá, thể hình, bóng chuyền, quần  				vợt… Tuy nhiên thực tiễn thi thành Luật cho thấy cần xác định cụ  				thể hơn nội hàm “thể thao chuyên nghiệp” để phân biệt rõ với thể  				thao thành tích cao, từ đó có cơ chế, chính sách phù hợp.
Đến nay, trước những  yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ  đạo Tổng cục Thể dục thể thao tiến hành rà soát đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật  Thể dục, thể thao để Bộ trưởng xem xét báo cáo Chính phủ trình Quốc hội khóa  XIII đưa vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh nhiệm kỳ 2011-2016.