Theo đó, các cấp các ngành tập trung bảo tồn, phát huy giá trị tiếng nói, chữ viết của đồng bào Mông; vận động người Mông giữ gìn kiến trúc nhà ở truyền thống; tổ chức các cuộc thi dệt vải Lanh, trình diễn trang phục truyền thống dân tộc Mông trong Ngày hội Văn hóa dân tộc Mông (cấp huyện); đẩy mạnh đưa văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Mông vào giảng dạy cho học sinh tại các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh, giúp các em hiểu về tầm quan trọng của việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đặc biệt, các cấp ủy, chính quyền địa phương còn phát huy tốt vai trò của 190 hội nghệ nhân dân gian trong công tác truyền dạy các loại hình di sản văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc nói chung và đồng bào Mông nói riêng. Thông qua sự hoạt động nhiệt huyết, trách nhiệm của các nghệ nhân dân gian đã góp phần tô đẹp tín ngưỡng dân gian, từng bước xóa bỏ hủ tục, phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh; phát huy, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và “sống lại” nghề truyền thống của đồng bào Mông như: Nghề mộc tại xã Niêm Tòng (Mèo Vạc); đúc lưỡi cày tại xã Chiến Phố, Tả Sử Choóng, chế tác nhạc cụ dân tộc Mông tại xã Nậm Ty (Hoàng Su Phì)...
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 5 làng văn hóa du lịch cộng đồng (VHDLCĐ) dân tộc Mông. Việc phát triển các làng VHDLCĐ không chỉ góp phần quan trọng gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông mà còn trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh, làm say lòng du khách. Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn: Các làng VHDLCĐ đều khai thác hiệu quả, thu hút nhiều khách du lịch. Thu nhập bình quân của các hộ làm dịch vụ du lịch đạt từ 70 – 100 triệu đồng/năm; nhiều hộ ở làng VHDLCĐ thôn Pả Vi Hạ, xã Pả Vi (Mèo Vạc) hay thôn Lũng Cẩm Trên, xã Sủng Là (Đồng Văn) đạt doanh thu gần 200 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 11 làng nghề, làng nghề truyền thống có đồng bào Mông tham gia, chiếm 25,6% trên tổng số làng nghề. Các làng nghề thu hút gần 560 hộ đồng bào Mông tham gia, tạo việc làm ổn định cho hơn 800 lao động và trên 1.300 lao động thời vụ với thu nhập trung bình từ 2,5 – 3 triệu đồng/người/tháng.
Đặc biệt, có 4 làng nghề thành lập được hợp tác xã để dẫn dắt hoạt động sản xuất gồm: Làng nghề thêu, dệt vải Lanh Lùng Tám; Làng nghề nấu rượu ngô Thanh Vân (Quản Bạ); Làng nghề may mặc trang phục dân tộc Mông và Làng nghề rượu ngô men lá dân tộc Mông (Đồng Văn).
Thực tế cho thấy, việc bảo tồn, khôi phục và phát huy giá trị đặc trưng văn hóa dân tộc Mông đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở nhằm khôi phục, bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp có nguy cơ mai một, thất truyền. Không những vậy, một số nét văn hóa đặc trưng dân tộc Mông được bảo tồn, coi trọng đã tác động lớn đến hệ tư tưởng, góp phần nâng cao nhận thức của đồng bào Mông trong việc giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hóa; đồng thời là động lực thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Xuất phát từ thực tiễn đó, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã xây dựng kế hoạch chi tiết phục dựng, bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của đồng bào Mông trước nguy cơ mai một như: Lễ hội Gầu Tào (huyện Yên Minh, Đồng Văn), nghề dệt Lanh (huyện Quản Bạ), tri thức canh tác hốc đá của cư dân Cao nguyên đá Hà Giang (tại các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ). Đồng thời, mở các lớp truyền dạy kỹ thuật chế tác khèn, kỹ năng thổi và múa khèn Mông tại các huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Xín Mần... Theo kết quả kiểm kê di sản văn hóa của cơ quan chuyên môn: Tỉnh ta đã kiểm kê được 29 di sản văn hóa dân tộc Mông, lập hồ sơ đề nghị đưa 4 di sản vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia gồm: Lễ hội Gầu Tào, nghệ thuật Khèn, kỹ thuật trồng Lanh và dệt vải Lanh, tri thức canh tác hốc đá của cư dân Cao nguyên đá...
VD